NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1. Nghị luận xã hội và các kiểu văn bản nghị luận xã hội
- Các kiểu văn bản nghị luận xã hội:
+ Nghị luận xã hội trung đại: Ở Việt Nam, thời trung đại, văn bản nghị luận được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, được thể hiện bằng các thể loại như chiếu, cáo, hịch,…
+ Nghị luận xã hội hiện đại: Khác với nghị luận xã hội trung đại, nghị luận xã hội hiện đại được viết bằng văn xuôi Quốc ngữ, câu văn tự do. Về nội dung, bên cạnh những vấn đề có tính chất quốc gia, quốc tế, các văn bản nghị luận xã hội hiện đại còn bàn bạc nhiều vấn đề của cuộc sống đời thường. Tác giả nghị luận xã hội hiện đại có thể là những nhân vật uy tín, có vị trí trong xã hội hoặc có thể là một người bình thường.
2. Một số thành tố của văn bản nghị luận
a. Luận đề
- Mỗi văn bản nghị luận thường chỉ có một luận đề. Luận đề thường được nêu ở nhan đề hoặc trong phần mở đầu của văn bản.
* Ví dụ:
+ Có những văn bản nghị luận, luận đề được hiển thị ngay ở nhan đề: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Hồ Chí Minh); Sức sống của con người Việt Nam qua ca dao (Nguyễn Đình Thi);…
+ Có những văn bản nghị luận, luận đề chưa được bộc lộ ở nhan đề: Xem người ta kìa! (Lạc Thanh) là ý nghĩa của sự gần gũi và khác biệt giữa mọi người; Hãy cầm lấy và đọc (Huỳnh Như Phương) là sự cần thiết của việc đọc sách;…
b. Luận điểm
- Luận điểm nhằm triển khai làm rõ luận đề. Luận điểm nhiều hay ít tùy thuộc vào nội dung của vấn đề được triển khai trong bài nghị luận. Các luận điểm lại được làm rõ bởi lí lẽ và bằng chứng.
- Mỗi luận điểm thường được triển khai trong một đoạn văn. Muốn nhận diện được luận điểm cần chú ý đến câu chủ đề của đoạn.
* Ví dụ:
+ Trong Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), đoạn từ "Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc" đến “sao cho khỏi để tai vạ về sau” triển khai một luận điểm. Có thể diễn đạt luận điểm đó là "Nguy cơ đất nước khi có giặc".
+ Trong Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Hồ Chí Minh), câu “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.” là câu chủ đề của đoạn mở đầu, đồng thời đó cũng là luận điểm đầu tiên của bài.
c. Bằng chứng khách quan và ý kiến, đánh giá chủ quan của người viết trong văn nghị luận
- Bằng chứng khách quan là những sự vật, số liệu có thật, có thể kiểm nghiệm được trong thực tế đời sống.
- Ý kiến, đánh giá chủ quan của người viết là những phát biểu, nhận định, phán đoán theo góc nhìn chủ quan của người viết, thường ít cơ sở để kiểm chứng. Do vậy, để giảm tính chủ quan trong đánh giá, giúp ý kiến trở nên đáng tin cậy, người viết cần đưa ra được các bằng chứng khách quan.
- Có thể phân biệt hai khái niệm này dựa vào bảng sau:
+ Bằng chứng khách quan:
+ Ý kiến, đánh giá chủ quan của người viết
3. Mối liên hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng trong văn bản nghị luận
- Luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng là những yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong văn bản nghị luận. Mối liên hệ này có tính tầng bậc. Bậc 1 là luận đề, bậc 2 là luận điểm, bậc 3 là lí lẽ và bằng chứng. Có thể hình dung mối liên hệ này qua sơ đồ sau:
- Mối quan hệ này có tính hai chiều, quy định lẫn nhau. Ở chiều thứ nhất, từ luận đề, người viết triển khai thành các luận điểm. Mỗi luận điểm muốn có sức thuyết phục, cần được làm rõ bằng các lí lẽ và mỗi lí lẽ cần được chứng minh bằng các bằng chứng cụ thể. Ở chiều ngược lại, lí lẽ và bằng chứng có tác dụng làm rõ luận điểm, các luận điểm cùng góp phần làm sáng tỏ luận đề của bài.