Lỗi: Trang web OLM.VN không tải hết được tài nguyên, xem cách sửa tại đây.

Tỏ lòng (Thuật hoài)

Danh sách bài làm & chấm bài  
Bình giảng Các bài giảng

TỎ LÒNG

(Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão)

    Phạm Ngũ Lão (1255-1320) xuất thân bình dân nhưng là một viên tướng giỏi, lập nhiều công trạng trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên và vùng biên giới phía Nam, được Trần Hưng Đạo tin dung. Ông sớm ham thích thơ văn, được coi là người “văn võ toàn tài”. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ: Vãn Thượng tướng Quốc công Trần Hưng Đạo và Thuật hoài.

    Nói về cuộc đời tác giả và xuất xứ bài thơ, Hồ Nguyên Trừng có phác thảo chân dung ngắn gọn Thi chí công danh (Bài thơ nói về chí công danh) trong sách Nam Ông mộng lục: “Phạm Ngũ Lão phụng sự Trần Nhân Vương, giữ chức Điện súy tướng quân. Ông vốn xuất thân từ quân ngũ nhưng ham đọc sách, tính tình phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ. Đối với việc võ bị, ông dường như có vẻ không quan tâm, song cai quản quân bằng tình cha con, vì thế mỗi khi ra trận đều thắng". Ông làm quan thị vệ cần mẫn, cẩn thận, là một bề tôi nanh vuốt đứng đầu và có bài thơ như sau:

     Đó chính là bài thơ mà người đời thường gọi là Thuật hoài (Tỏ lòng)

Hoành sóc giang sơm kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

     Dịch thơ:

Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuối trôi trâu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

     Bài thơ Tỏ lòng thuộc lối thơ ngôn chí, bày tỏ chí hướng, nguyện ước và lí tưởng sống của con người cá nhân in đậm cảm quan nhà nho. Cảm hứng về con người và ý thức làm người tài giỏi, hữu dụng được kết tinh trên nền tảng đời sống văn hóa và khí thế, sức mạnh thời Trần – hào khí Đông A. Đó cũng là tiếng thơ hòa chung khí thế một thời đại hào hùng, bên cạnh những Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhân Tông, Nguyễn Sĩ Cố…

     Mở đầu bài thơ là hình ảnh một võ tướng – người lính nhưng đã được cách điệu, khoa trương, huyền thoại hóa thành hình tượng người anh hùng chiến trận mang tầm vóc quốc huy, tầm vóc vũ trụ, đo đếm bằng chiều kích giang sơn, núi rộng sông dài. Con người “Cầm ngang ngọn giáo…” trải kháp núi sông ấy là sự tiếp nối biểu tượng Thánh Gióng kì vĩ trong tâm thức dân gian (chú bé ba tuổi vụt cao lớn, cưỡi ngựa sắt đánh tan giặc rồi bay về trời) và chuyển hóa thành mẫu hình người võ tướng tràn đầy khí phách và sức mạnh.

      Tiếp sau câu thơ trên là sự thể hiện khí thế của ba quân, qua đó là ý thức về sức mạnh của cả một thời đại, một dân tộc. Xét trên phương diện ngôn từ nghệ thuật cũng như ý nghĩa biểu trưng, điển phạm thì câu thơ có thể được hiểu theo cả hai nét nghĩa cụ thể khác nhau. Thứ nhất, theo cách hiểu truyền thống, ba quân sức mạnh như hổ báo, khí thế như át cả sao Ngưu. Thứ hai, ba quân dũng mãnh như hổ báo, khí thế nuốt trôi trâu. Những người theo cách hiểu sau còn dẫn chứng cả cách sử dụng hình ảnh này có trong thơ cổ Trung Hoa ở các tác giả Hàn Tín, Đỗ Phủ. Tuy nhiên, cách hiểu theo truyền thống các cụ xưa vẫn được nhiều học giả chấp nhận Một mặt, tì hổ khí thôn Ngưu ngụ ý nói khí thế ba quân át sao Ngưu trên trời thì hình ảnh hùng tráng, giàu chất thơ và tương hợp với chân dug người võ tướng ở câu thơ trên hơn là hình ảnh so sánh cụ thể với loài hổ báo nuốt trôi con trâu. Mặt khác, ngay trong thơ Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) cũng có câu sử dụng hình ảnh này để nói về chí hướng, năng lực người tài:

Giới Hiên tiên sinh miếu lang khí

Mậu linh dĩ hữu thôn ngưu chí…

(Tiên sinh Giới Hiên là nhân tài của triều đình,

Thuở thiếu niên đã có chí nuốt trôi trâu…)

     Điều quan trong nhất, dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh người võ tướng trong thơ Phạm Ngũ Lão cũng gắn với sức mạnh ba quân và thể hiện tầm vóc một đất nước vừa ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên – Mông. Đó là ý thức một con người nhưng cũng là niềm tin về hào khí, sức mạnh của cả dân tộc.

     Trong hai câu thơ sau, Phạm Ngũ Lão nhấn mạnh hoài bão, ý thức của bậc nam nhi với việc lập công danh để đời. Nên nhớ rằng, theo quan niệm Nho giáo thì con đường công danh chỉ có thể đến với bậc nam nhi và đã là bậc nam nhi thì phải hướng đến công danh, mong đạt đến “công thành danh toại” để bản thân được thỏa nguyện chí làm trai và làm vẻ vang cho mẹ cha, gia tộc. Theo sách Kinh lễ, nhà quý tộc khi sinh con trai thì lấy cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng, bắn bốt phát tên ra bốn phương, ngụ ý làm trai có chí khí tung hoành ngang dọc bốn phương trời đất. Văn học dân gian từng nói đến chí làm trai với những câu ca dao sau: “Làm trai cho đáng nên trai - Xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên”, “Làm trai cho đáng nên trai  - Phú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng”. Khi chí làm trai không rõ ràng sẽ có những câu ca phê phán “Làm trai cho đáng nên trai - Khom lưng uốn gối gánh hai hạt vừng”, “Chồng người đánh bắc dẹp đông - Chồng em ngồi bếp sờ lông con mèo”.  Nguyện ước lập công danh còn trở đi trở lại trong thơ nhiều trí thức nho sĩ, đặc biệt trong thơ Nguyễn Công Trứ “Chí làm trai Nam Bắc Tây Đông - Cho phỉ sức vẫy vùng trong bến bể”, “Đã mang tiếng ở trong trời đất - Phải có danh gì với núi sông”.  Theo một cách hình dung khác, việc đề cao bậc nam nhi có khi ăn sâu vào tiềm thức và đi đến phủ định, coi thường, mất lòng tin vào nữ giới. Chẳng hạn, ở bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống vốn được coi là tiếng nói ngang tang đầy bản lĩnh của nhà thơ phái đẹp Hồ Xuân Hương thì tiền đề của tinh thần khinh mạn viên tướng họ Sầm và ước vọng lưu danh sự nghiệp “Thì sự anh hùng há bấy nhiêu” lại vẫn cần một điều kiện giả định “Ví đây đổi phận làm trai được” – một tiếng nói trong tiềm thức phủ nhận khả năng của cả giới mình. So sánh như thế để thấy rõ đặc điểm lịch sử và cơ sở văn hóa thời đại thịnh Trần đã quy định nội dung tiếng thơ Phạm Ngũ Lão.

      Nhấn mạnh chí hướng lập công danh, Phạm Ngũ Lão tạo nên một phản đề trong câu kết: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” (Xấu hổ khi nghe người ta nói chuyện Vũ hầu). Dẫn giải đầy đủ cả điển tích thì câu thơ có nghĩa: Mình cũng là bậc nam nhi nên khi nghe chuyện phải biết xấu hổ với ông Gia Cát Lượng, tức Khổng Minh, người nổi tiếng nhân đức, mưu lược, tài dung binh, từng giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán, sau được phong tước Vũ Lượng hầu, còn gọi tắt là Vũ hầu. Bài thơ ra đời khi cuộc kháng chiến quân Nguyên – Mông chưa toàn thắng, là một người cầm quân tâm huyết, Phạm Ngũ Lão vẫn có những trăn trở, day dứt. Phạm Ngũ Lão là một vị tướng tài, đã lãnh đạo quân dân nhà Trần đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, góp công rất nhiều trong việc xây dựng quốc gia phong kiến thống nhất. Vậy mà con người ấy vẫn cảm thấy thẹn khi chưa dốc hết tâm sức cho dân cho nước.  Nỗi thẹn ấy thể hiện những băn khoăn, day dứt không phải cho cá nhân ông mà vì sự nghiệp chung của đất nước. Đây là nỗi thẹn làm nên nhân cách lớn, thể hiện Phạm Ngũ Lão luôn dành hết tâm huyết cho dân cho nước. Phạm Ngũ Lão là tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người thời Trần. Câu thơ cuối có ý nghĩa đánh động, kê kích tâm lí, thức tỉnh ý thức làm người và chí hướng lập công danh của bậc nam nhi, rộng hơn là khả năng tự ý thức về cuộc sống và vị trí, vai trò, sự nghiệp, giá trị của mỗi cá nhân trong xã hội.

       Bài thơ Tỏ lòng thuộc lối thơ tứ tuyệt nên hết sức ngắn gọn, hàm súc, cô đúc và thể hiện sâu sắc hình ảnh bậc võ tướng. Đó là nguyện ước và cũng là sự khẳng định bản lĩnh con người cá nhân, biểu hiện tiếng nói của một người cũng là chí hướng của mọi con người, xác định tầm vóc và khí thế con người Đại Việt một thời một thuở nhưng cũng là biểu tượng sức mạnh dân tộc ở mọi thời đại.

(Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 10, Nguyễn Hữu Sơn)

 

Phụ huynh có nhu cầu đăng ký học kèm trực tuyến với giáo viên OLM xem tại đây, hoặc liên hệ: 0966 971 996 (cô Quyên)