Lỗi: Trang web OLM.VN không tải hết được tài nguyên, xem cách sửa tại đây.

Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới

Danh sách bài làm & chấm bài  
Bài soạn Các bài giảng

CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO THẾ KỈ MỚI

Vũ Khoan

1. Tác giả viết bài này trong thời điểm nào của lịch sử? Bài viết đã nêu vấn đề gì? Ý nghĩa thời sự và ý nghĩa lâu dài của vấn đề ấy?

    Những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức to lớn và cấp bách đang đặt ra cho đất nước ta, cho thế hệ trẻ hiện nay là gì?

* Tác giả viết bài viết này trong thời điểm: Năm 2001, năm mở đầu của thế kỉ XXI và thiên niên kỉ thứ ba. Đây là thời điểm có ý nghĩa bản lề “chuyển tiếp giữa hai thế kỉ và hơn thế nữa, là sự chuyển tiếp giữa hai thiên niên kỉ”. Thế kỉ XX khép lại, cũng là sự chấm dứt của một thế kỉ đã chứng kiến nhiều đau thương, tổn thất của dân tộc sau hai cuộc chiến tranh thế giới. Đối với Việt Nam, đây là thế kỉ của những chiến công hào hùng, vinh quang của một dân tộc nhỏ nhưng đã chiến thắng hai kẻ thù xâm lược mạnh nhất thế giới là Pháp và Mĩ. Giờ đây, chúng ta đang đứng ở ngưỡng cửa của thế kỉ XXI, một thế kỉ của tri thức và công nghệ. Nước ra có nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thử thách. Vì thế để Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và châu lục, cần phải có sự chuẩn bị một hành trang tốt.

* Bài viết nêu vấn đề: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới.

* Ý nghĩa của vấn đề:

            Đây là vấn đề có ý nghĩa thời sự sâu sắc. Công cuộc đổi mới bắt đầu từ cuối thập niên 1980 và đến cuối thế kỉ XX, Việt Nam đã đạt được những thành quả vững chắc, bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước có sự thay đổi lớn lao: cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm…) được cải thiện đáng kể, đời sống của người dân dần nâng cao. Sang thế kỉ XXI, Việt Nam cần duy trì và phát huy tốc độ phát triển ấy để đạt được mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

            Ý nghĩa lâu dài của vấn đè: Phát huy các điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu là điều kiện tiên quyết để phát triển bất kì một quốc gia nào. Đó chính là sự phát huy yếu tố nội lực của chính đất nước trong tiến trình phát triển. Một trong những yếu tố nội lực quan trọng nhất là yếu tố con người. Đó là yếu tố then chốt để giải quyết mọi vấn đề của thế kỉ mới đặt ra cho các quốc gia. Trong việc chuẩn bị hành trang của mội quốc gia, việc chuẩn bị con người chính là bước đầu tiên, quan trọng nhất.

* Những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức to lớn và cấp bách đang đặt ra cho đất nước ta, cho thế hệ trẻ hiện nay là:

            Thứ nhất: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp. Đây là nhiệm vụ đầu tiên và cấp thiết nhất mà chúng ta cần thực hiện ngay.

            Thứ hai, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

            Thứ ba, nhanh chóng tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức.

2. Hãy đọc lại cả bài và lập dàn ý theo trình tự lập luận của tác giả.

* Bố cục bài văn chia thành 3 phần:

- Mở bài: Nêu thời điểm và gợi mở vấn đề.

- Thân bài: Trình bày hai luận điểm chính:

+ Luận điểm 1: Vì sao sự chuẩn bị con người là quan trọng nhất trong hành trang bước vào thế kỉ mới? Con người luôn luôn là động lực phát triển của xã hội. Đặc biệt, trong thế kỉ mới, với nền kinh tế tri thức thì vai trò của con người lại càng nổi bật.

+ Luận điểm 2: nước ta đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức cấp bách. Việc giải quyết được những nhiệm vụ ấy phụ thuộc vào chính con người Việt Nam. Tác giả trình bày những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam và ảnh hưởng của chúng tới sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Kết bài: Khẳng định: để xây dựng đất nước giàu mạnh, người Việt Nam phải tích cực phát huy những điểm mạnh, loại bỏ những điểm yếu, quen dần những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.

3. Trong bài này, tác giả cho rằng: “Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất”. Điều đó có đúng không, vì sao?

Luận điểm của tác giả là hoàn toàn xác đáng, được rút ra trên cơ sở khoa học và thực tiễn cuộc sống. Vì:

- Từ cổ chí kim, “bao giờ con người cũng vẫn là động lực phát triển của lịch sử”. Đó là quan điểm phù hợp với nhân sinh quan của chủ nghĩa duy vật lịch sử, cho rằng con người là chủ nhân sáng tạo ra lịch sử.

- Bước vào thế kỉ XXI với nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, yếu tố tri thức, trí tuệ sẽ chiếm tỉ trọng cao trong giá trị các sản phẩm và tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Trình độ phát triển cao của nền kinh tế có được do sự phát triển của khoa học và công nghệ và chủ nhân sáng tạo ra là con người. Trong hoàn cảnh ấy, vai trò của con người sẽ càng nổi trội.

- Tình hình nước ta ở đầu thế kỉ XXI được tác giả phân tích chi tiết. Căn cứ vào tình hình thực tế và đòi hỏi của điều kiện khách quan, tác giả đưa ra ba nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện:

Thứ nhất: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp. Đây là nhiệm vụ đầu tiên và cấp thiết nhất mà chúng ta cần thực hiện ngay.

            Thứ hai, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

            Thứ ba, nhanh chóng tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức.

Gánh vác trọng trách thực hiện những nhiệm vụ trên không thể là nhân tố nào khác mà chính là con người Việt Nam. Sự chuẩn bị bản thân con người, sự đầu tư thích đáng vào giáo dục đào tạo con người một cách toàn diện chính là sự chuẩn bị cần thiết nhất và trọng yếu nhất trong hành trang của mỗi dân tộc khi tiến vào thế kỉ XXI.

4. Tác giả đã nêu ra và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu nào trong tính cách, thói quen của người Việt Nam ta? Những điểm mạnh, điểm yếu ấy có quan hệ như thế nào với nhiệm vụ đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại ngày nay.

* Điểm mạnh của người Việt Nam:

- Sự thông minh, nhạy bén với cái mới.

- Lao động cần cù, sáng tạo

- Đoàn kết, đùm bọc, nhất là trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm

- Thích ứng nhanh

* Điểm yếu của người Việt Nam:

- Thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành, sáng tạo do lối học chay, học vẹt

- Thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ lao động khẩn trương

- Thường đố kị nhau trong làm ăn và trong cuộc sống hàng ngày

- Thái độ kì thị với kinh doanh, quen với bao cấp, thói sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức, thói khôn vặt, ít giữ chữ tín.

* Quan hệ của những điểm mạnh, điểm yếu ấy với nhiệm vụ đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại ngày nay là rất chặt chẽ: Những điểm yếu, điểm mạnh đó luôn tồn tại song hành trong bản thân mỗi người nhưng không phải ai, không phải lúc nào chúng ta cũng dám nhìn nhận những điểm yếu đó và tìm cách khắc phục. Trong khi đó những hạn chế lại đang tạo ra những cản trở rất lớn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước và tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đứng trước những cơ hội và thách thức của thế kỉ mới, chúng ta cần phải nhìn nhận một cách khách quan những điểm mạnh, điểm yếu của người Việt Nam để có cách phát huy và khắc phục thích hợp, góp phần đầy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

5. Em đã học và đọc nhiều tác phẩm văn học và những bài học lịch sử nói về các phẩm chất truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Những nhận xét của tác giả có gì giống và có điểm nào khác với những điều mà em đã đọc được trong các sách vở nói trên? Thái độ của tác giả như thế nào khi nêu những nhận xét này?

* Nhận xét của Vũ Khoan:

- Giống với những người đi trước: Nêu lên những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam có từ lâu đời.

- Điểm khác: Tác giả nêu lên cả những điểm yếu của con người Việt Nam.

* Thái độ của tác giả khi nêu những nhận xét này: hoàn toàn thẳng thắn, khách quan, công bằng và dũng cảm. Vì vậy, nó rất đáng tôn trọng. Qua mỗi phân tích chi tiết của tác giả, chúng ta đều cảm thấy phải có trách nhiệm nhìn nhận và rèn luyện mình nhằm khắc phục những hạn chế.

6. Trong vản bản, tác giả sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ. Hãy tìm những thành ngữ, tục ngữ ấy và cho biết ý nghĩa, tác dụng của chúng.

* Những thành ngữ, tục ngữ mà tác giả sử dụng trong bài viết là: “nước đến chân mới nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “trâu buộc ghét trâu ăn”, “bóc ngắn cắn dài”.

* Tác dụng của việc sử dụng những thành ngữ, tục ngữ:

- Tác giả muốn trình bày những phương châm sống, những lối nghĩ truyền thống của người dân Việt Nam. Qua đó cho thấy những điểm mạnh và điểm yếu của chúng ta.

- Vận dụng văn học dân gian làm cho bài văn nghị luận thêm sinh động, dễ hiểu, bình dị, gần gũi với các tầng lớp nhân dân chứ không phải là những khẩu hiệu, tuyên truyền to tát. Nhờ vậy, tăng sức thuyết phục cho lí lẽ, tạo nét giản dị, súc tích cho bài văn.

 

Phụ huynh có nhu cầu đăng ký học kèm trực tuyến với giáo viên OLM xem tại đây, hoặc liên hệ: 0966 971 996 (cô Quyên)